Tác giả bài viết: Lê Thị Nghệ
Nguồn tin: Khoa Dân vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đồng thời là một nhà chiến lược quân sự xuất sắc của dân tộc ta. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng quân sự của cha ông, tinh hoa quân sự cổ kim của nhiều nước trên thế giới, quan trọng nhất là tư tưởng quân sự của chủ nghĩa Mác – Lê nin được Hồ Chí Minh chọn lọc, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn đất nước và con người Việt Nam.
1. Tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau
Một là, tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Năm 1858, núp dưới chiêu bài khai hóa văn minh, thực dân Pháp đã xâm lược nước ta. Năm 1884, khi hoàn thành quá trình xâm lược và bắt đầu quá trình khai thác thuộc địa đã làm cho nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh thống khổ lầm than.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra bản chất của thực dân Pháp và chỉ rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”[1]. Do đó, “trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[2].
Theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng được tổ chức lại, bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với 2 hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và sự kết hợp khéo léo của 2 hình thức ấy.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với tư tưởng hiếu chiến tàn bạo của đế quốc xâm lược. Nhân ta buộc phải cầm súng để tự vệ, nhưng chúng ta không coi đánh tiêu diệt là con đường duy nhất để kết thúc chiến tranh, mà dùng “mưu phạt, tâm công”, coi trọng binh vận, địch vận, tranh thủ đàm phán hòa bình, đánh sập ý chí xâm lược của chúng, cốt sao cho “Mỹ cút, ngụy nhào”. Đó là tư tưởng bạo lực thống nhất với nhân đạo và hòa bình.
Hai là, tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh sớm chủ trương tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân để giành độc lập dân tộc. Người chỉ rõ, khởi nghĩa vũ trang “phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn”[3], lực lượng khởi nghĩa phải là toàn dân, lấy liên minh công nông làm cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này thể hiện rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa truyền thống “thân dân, tin dân” của cha ông, tiêu biểu là Nguyễn Trãi: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Vua Lê Thánh Tông: trong xã hội dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (trong xã hội dân là quý nhất, tiếp đến là xã tắc, cuối cùng là vua) Lực lượng “toàn dân” là tư tưởng dân tộc, nhưng “coi công nông là lực lượng nòng cốt” là quan điểm mang tính giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm của Hồ Chí Minh vừa phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, vừa phát huy được sức mạnh của lực lượng tiên phong để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cuộc khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ mới. Đây chính là chìa khóa giải mã những thắng lợi của dân tộc ta trong cách mạng giải phóng và chiến tranh cách mạng. Đó không phải là sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự mà là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh giai cấp.
Bên cạnh đó, khởi nghĩa vũ trang toàn dân thực chất còn là cuộc khởi nghĩa được chuẩn bị kỹ lưỡng từ lập căn cứ địa, phát triển lực lượng chính trị, tổ chức ra các đội tự vệ, du kích vũ trang, chuẩn bị đón thời cơ, chớp thời cơ mà nổi dậy, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ba là, tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải bắt đầu từ việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng quân sự; từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Thực tiễn đã chứng tỏ, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, là hình thức tổ chức thích hợp nhất để phát huy sức mạnh của cả dân tộc, phù hợp với hoàn cảnh đất nước Việt Nam, với nghệ thuật quân sự và cách đánh của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam thành một đội quân cách mạng vững mạnh về mọi mặt, từng bước chính quy hiện đại.
Chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là cơ sở, là nền tảng để xây dựng quân đội, trong đó vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp công nhân, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục tiêu lý tưởng cách mạng. Quan tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội; xây dựng quân đội thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân. Lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người là chính, Người luôn nhắc cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu để có phẩm chất và năng lực toàn diện. Đề cao vai trò con người kết hợp với coi trọng, nâng cao trình độ vũ khí trang bị. Yêu cầu các cấp, các ngành chăm lo, nuôi dưỡng, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ Trí – Dũng – Nhân – Tín – Liêm - Trung, coi đó là khâu then chốt của việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm, thái độ của cán bộ đối với chiến sĩ, với nhân dân và kẻ địch.
Bốn là, tư tưởng về kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính.
Trước hết phải động viên được tinh thần chiến đấu của toàn dân: mỗi làng, mỗi phố là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ, “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[4].
Đánh giặc trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao... các mặt trận đó phối hợp với nhau chặt chẽ, trong đó quân sự là hình thức chủ yếu nhất, chính trị là hình thức cơ bản của chiến tranh nhân dân.
Kẻ thù muốn đánh nhanh, thắng nhanh; để chống lại một kẻ thù mạnh hơn mình, ta phải đánh lâu dài, làm cho ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng suy. Kháng chiến trường kỳ nhưng lại phải biết tranh thủ thời cơ, dựa vào sức mình là chính đồng thời lại phải ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, tạo những đòn quyết chiến lược để kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi về ta.
Năm là, tư tưởng về quốc phòng toàn dân, về chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh, muốn giữ nước, phải xây dựng được “thế trận lòng dân”, dựa trên cơ sở “nhân hòa”, toàn dân nhất trí, cả nước một lòng. Có tạo ra được sự nhất trí về chính trị - tinh thần thì vũ khí kỹ thuật hiện đại, tài thao lược của tướng lĩnh... mới có điều kiện phát huy. Muốn vậy, Đảng và chính phủ phải thi hàng một nền chính trị liêm khiết, ra sức cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ, phát triển kinh tế, văn hóa... Có như vậy, nhân dân mới đoàn kết chúng quanh Đảng và Chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh. Theo gương người xưa, Hồ Chí Minh chủ trương phải “khoan sức dân”. Trước tình hình đời sống nhân dân có nhiều khó khăn, Người đề nghị “có thể giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá”[5].
Tóm lại, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh lấy sức mạnh chính trị - tinh thần của toàn dân làm nền tảng, trên cơ sở đó phát huy tài thao lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, phát huy được tinh hoa nghệ thuật quân sự của cha ông và tinh hoa nghệ thuật quân sự của thế giới. Do đó, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng của học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam. Chính Người đã cùng với Đảng ta nâng nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân ở thời đại Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới.
2. Sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh trong tình hình mới
Ngày 22/12/1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (nay là Quân đội nhân dân Việt Nam) ra đời với phương châm huy động sức mạnh toàn dân đánh giặc mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí đã đưa cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi quan trọng: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giải phóng Miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng vào 30/4/1975 thống nhất đất nước
Sau 32 năm đổi mới, văn kiện Đại hội XII Đảng ta nhận định: Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh.
Đối với nước ta, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, tư tưởng, văn hóa, Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rất nặng nề, có cả thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Vì thế, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, trên cơ sở đó, chú trọng khai thác, vận dụng tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Trong đó, cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, Đảng ta luôn xác định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm chiến lược. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bài học quý giá mà Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng là: có dân là có tất cả. Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu là phải tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân gắn bó mật thiết với hệ thống chính trị. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc còn là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ngay từ năm 1920 khi tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin và quyết định lựa chọn cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa qua tác phẩm Đường Kách Mệnh (1927), Bác Hồ đã sớm phát hiện ra sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của thời đại và coi việc kết hợp ấy là một tất yếu khách quan trong thời đại cách mạng vô sản. Chính nhờ sức mạnh ấy mà ta đã thành công trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hai cuộc kháng chiến và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại đã được nhân lên nhiều lần nhờ một chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng, đồng thời không ngừng đổi mới, tạo ra thế và lực mới. Chúng ta đã tranh thủ tiếp cận sự phát triển của khoa học - công nghệ thế giới, tranh thủ điều kiện hòa bình, sự hợp tác quốc tế và các xu thế tích cực trên thế giới để tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, đánh giá đúng tình hình, cục diện thế giới, khu vực; xác định đối tác, đối tượng. Trước hết, việc vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước vào xây dựng chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự phải trên cơ sở đường lối chính trị, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, bối cảnh khu vực, quốc tế cũng như khả năng, điều kiện của đất nước. Theo đó, tập trung đánh giá một cách khách quan các điểm nóng của khu vực, nhất là các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo và các vấn đề liên quan đến nước ta.
Thứ ba, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là xây dựng quân đội nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nhân dân nói riêng vững mạnh về mọi mặt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân cả nước.
Ngày nay, tư tưởng quân sự đầy sức sống của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị và dẫn dắt nhân dân ta, quân đội ta tiến lên trên con đường thắng lợi trong giai đoạn mới của cách mạng. Chúng ta hãy ra sức nghiên cứu và học tập tư tưởng quân sự của Người và đường lối quân sự của Đảng, phát hiện ra những quy luật mới của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; dày công phấn đấu để phát triển và xây dựng thành công nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kỷ nguyên mới./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập. t1, tr.96
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập. t12, tr.304
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr.468
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập. t.4, tr.480
[5] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, t.8, tr 272