NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

    ThS. Lê Thị Minh Phượng - Khoa Lý luận cơ sở

    Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của Đảng, được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên ngay khi Đảng mới ra đời và tiếp tục được thể hiện nhất quán, ngày càng cụ thể, sâu sắc hơn trong các cương lĩnh sau này, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua tại Đại hội VII (1991), Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Tuy nhiên chủ nghĩa xã hội là gì? Con đường phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ diễn ra như thế nào? là những câu hỏi rất mới mẻ, rất lớn và rất khó, đòi hỏi sự tìm tòi, thử nghiệm, đúc kết rất lâu dài. V.I.Lênin từng nói: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng triệu người sẽ chỉ rõ khi họ bắt tay vào hành động”[1]

    Hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, về đường lối chiến lược, là quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định, kiên trì xây dựng, không ngừng hoàn thiện nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những điều kiện lịch sử khác nhau.

    Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện vai trò hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến của cả nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã hình thành, lớn mạnh, đặc biệt là những thành tựu to lớn của Liên bang Xôviết trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và những tiền đề quan trọng mà nhân dân ta đã tạo ra trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, Đại hội III của Đảng (1960) đã quyết định tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

    Trên cơ sở tham khảo, vận dụng kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, Đại hội III (1960) đã đưa ra những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. “Đại hội bước đầu phác hoạ những đường nét cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng ở miền Bắc: xã hội ấm no, hạnh phúc; có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối với công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, quan hệ sản xuất mới với các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa; có nền đạo đức mới, văn hoá, khoa học, kỹ thuật tiên tiến; nhân dân lao động có đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được nâng cao; xã hội mới mà cơ sở là liên minh giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp lao động khác, chủ yếu là giữa công nhân với nông dân tập thể; có quan hệ hữu nghị quốc tế, trước hết là sự đoàn kết, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu”[2].

    Tuy vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội một sự nghiệp vĩ đại, chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Bởi vậy, trong nhận thức và tổ chức thực tiễn không thể tránh khỏi những vấp váp, sai lầm. Vượt qua những khó khăn, thử thách đó, Đảng ta với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”[3] đã dũng cảm đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về con đường lên chủ nghĩa xã hội.

    Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, năm 1991, Đảng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cương lĩnh đầu tiên của Đảng trong thời kỳ đổi mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược về những vấn đề hệ trọng của đất nước. Một trong những nội dung quan trọng nhất của Cương lĩnh là xác định các đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

    “X· héi x· héi chñ nghÜa mµ nh©n d©n ta x©y dùng lµ mét x· héi:

    • Do nhân dân lao động làm chủ.
    • Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
    • Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
    • Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
    • Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
    • Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.”[4]

    Việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một trong những đột phá về tư duy lý luận của Đảng. Các đặc trưng đó cũng đã bao quát khá đầy đủ các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, con người, lĩnh vực xã hội cũng như quan hệ quốc tế. Điều đó cho thấy, Đảng ta đã trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp điều kiện cụ thể của đất nước. Nhìn chung, việc xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới chỉ là bước đầu, chưa thật đầy đủ, tuy nhiên đã phản ánh khá chính xác bản chất của một chế độ xã hội tốt đẹp mà khi kết thúc thời kỳ quá độ sẽ đạt tới.

    Qua các kỳ Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996), IX (năm 2001), X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

    Đại hội VIII: “x©y dùng nưíc ta thµnh mét nưíc c«ng nghiÖp cã c¬ së vËt chÊt - kü thuËt hiÖn ®¹i, c¬ cÊu kinh tÕ hîp lý, quan hÖ sn xuÊt tiÕn bé, phï hîp víi tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lưîng sn xuÊt, ®êi sèng vËt chÊt vµ tinh thÇn cao, quèc phßng, an ninh v÷ng ch¾c, d©n giµu, nước m¹nh, x· héi c«ng b»ng, v¨n minh[5].

    Đại hội IX của Đảng (năm 2001), từ thực tiễn và thành tựu 15 năm đổi mới, tiếp tục có những nhận thức đầy đủ, rõ ràng hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã nhận thức biện chứng về con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khẳng định bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng không phải phủ định tất cả những gì thuộc về chủ nghĩa tư bản, mà tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đại hội phân tích sâu sắc tính chất của thời kỳ quá độ; làm rõ động lực phát triển đất nước; xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội[6]. Đây là những bổ sung, phát triển mới về nhận thức lý luận của Đảng.

    Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006) đã có sự điều chỉnh trong nhận thức về các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo đó, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng bao gồm 8 đặc trưng chủ yếu.

    “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;

    - Do nhân dân làm chủ;

    - Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

    - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

    - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;

    - Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ;

    - Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;

    - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới[7].

    (bôi đen là ý tác giả nhấn mạnh)

    Đại hội X đã bổ sung thêm 2 đặc trưng mới (thứ nhất và thứ sáu):

    Đặc trưng thứ nhất, "… là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong Cương lĩnh năm 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Đến Đại hội X đã bổ sung thêm từ "dân chủ", thành "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh" và xác định đó là đặc trưng phổ quát của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Đây chính là điểm hội tụ để thực hiện đoàn kết các dân tộc.

    Đặc trưng thứ sáu, "có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản". Cương lĩnh năm 1991 chưa nói đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đây là sự phát triển lý luận rất quan trọng của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là sự bổ sung cần thiết, kịp thời bởi, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo của Đảng nhất thiết phải thông qua hệ thống chính trị, trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước đó phải mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân và vận hành trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

    Ngoài ra, những đặc trưng khác trong Văn kiện Đại hội X (2006) so với Cương lĩnh năm 1991 cũng có sự thay đổi về cách diễn đạt: Ví dụ: Ở đặc trưng thứ hai, "Do nhân dân làm chủ" (Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: "Do nhân dân lao động làm chủ"). Điều này cho thấy, trong tư duy lý luận của Đảng, chủ thể của chế độ xã hội mới cần thiết phải được mở rộng nhằm tăng cường khối đại đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc.

    Việc xác định các đặc trưng trên đây của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứng tỏ nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có những bước tiến mới.

    Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ 8 đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới[8]

    Trong đặc trưng thứ nhất, trật tự của các thành tố cũng được điều chỉnh. Nếu như Văn kiện Đại hội X của Đảng, mệnh đề “công bằng” để trước mệnh đề “dân chủ” thì nay “dân chủ” được để trước “công bằng”. Sự điều chỉnh này về thực chất phản ánh chính xác hơn bản chất của chế độ ta bởi chế độ đó là chế độ dân chủ. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[9] . Sự điều chỉnh trên đây cũng phù hợp thực tế khách quan bởi, một chế độ dân chủ, tất yếu sẽ có công bằng. Hơn nữa, trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại, dân chủ là một trong những giá trị lớn mà nhân loại theo đuổi, nó vừa là mục tiêu, đồng thời là động lực phát triển của xã hội.

    Việc Cương lĩnh tái khẳng định đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “Do nhân dân làm chủ” (theo Đại hội X) phản ánh quan điểm nhất quán của Đảng ta khi xác định, chủ thể trung tâm là nhân dân và trong chế độ ta, nhân dân làm chủ. Xác định đặc trưng “nhân dân làm chủ” còn là sự bác bỏ có căn cứ đối với các luận điệu của các thế lực thù địch khi cho rằng, chế độ ta không dân chủ, “là toàn trị”, là “chuyên chế”,.. Ngoài ra, việc xác định chủ thể xã hội là nhân dân làm chủ còn phản ánh một sự thật khách quan rằng, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực chính trị. Đó phải là tổng thể các quyền được thể hiện cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

    Ở đặc trưng thứ ba, việc Cương lĩnh diễn đạt “quan hệ sản xuất phù hợp” tức là phù với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay để trở thành địa bàn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngoài ra, còn là sự phù hợp với mục tiêu của chế độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... Tư duy lý luận đó là một bước tiến nhằm khắc phục một bước những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí của thời kỳ trước đổi mới.

    Đặc trưng thứ tư, kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Vì vậy, xác định đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa “có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là đúng đắn” bởi “văn hoá còn thì dân tộc còn”, văn hóa “thực sự là nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.

    Ở đặc trưng thứ năm, nếu như Văn kiện Đại hội X (2006) xác định, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện” thì Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) điều chỉnh thành: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Sự điều chỉnh này là cần thiết, đúng đắn và có cơ sở chắc chắn. Lý do bởi, mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người một cách triệt để, tạo điều kiện để con người phát triển tự do, toàn diện. Tuy nhiên, cần thấy rằng, đó là mục tiêu sau khi đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện, đầy đủ. Trong thời kỳ quá độ, mục tiêu đó từng bước mới đạt được. Về phương diện thực tiễn, trong điều kiện lực lượng sản xuất của chúng ta phát triển chưa cao và rất đa dạng về trình độ, do đó còn tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau thì mục tiêu khắc phục hoàn toàn ách áp bức, bất công là không thực tế. Việc điều chỉnh này cũng không phải là “một bước lùi” hay một sự xa rời mục tiêu mà là để tư duy phản ánh chính xác hơn thực tiễn cuộc sống nhằm khắc phục tư duy chủ quan, nóng vội đã từng tồn tại ở giai đoạn trước.

    Đối với đặc trưng thứ sáu “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Việc bổ sung nguyên tắc “tôn trọng” giữa các dân tộc là cần thiết bởi qua tổng kết thực tiễn, nhận thấy rằng, trong tiến trình cách mạng, nhất là qua công cuộc đổi mới, đất nước đã thu được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân lịch sử, trong quan hệ giữa các tộc người, các biểu hiện cực đoan nảy sinh và có xu hướng gia tăng. Vì vậy, nhấn mạnh nguyên tắc “tôn trọng” là nhằm khắc phục các biểu hiện đó, bảo đảm chiến lược đại đoàn kết dân tộc được giữ vững, tăng cường. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Đó cũng là bài học làm nên thành công của cách mạng Việt Nam

    Ở đặc trưng thứ bảy: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Kế thừa quan điểm của Đại hội X, xuất phát từ thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng như quá hình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cần cần phải có một nhà nước đủ mạnh, nhà nước ấy không thể là nhà nước nào khác hơn nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Việt Nam và mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nên trong Cương lĩnh 2011 đã thay từ “dưới” sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ “do” Đảng Cộng sản lãnh đạo (so với Đại hội X).

    Nếu như Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn ở đặc trưng thứ tám: ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ, các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các đảng khác, các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới….trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam.

    Sau Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Đại hội XII, XIII của Đảng tiếp tục có những bước phát triển mới trong tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy không có phần trình bày riêng về các đặc trưng song nhiều nội dung mới được bổ sung, phát triển. Chẳng hạn, việc khẳng định và nhận thức đầy đủ hơn về mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ - nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhận thức đầy đủ hơn về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới….

    Cũng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mục tiêu phát triển tổng quát của cách mạng giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo được xác định là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[10].

    Đánh giá về những đổi mới trong tư duy lý luận của Đảng, văn kiện Đại hội lần thứ XIII nhận định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”[11]

    Việc xác định ngày càng đầy đủ, chính xác đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cơ sở lý luận để thực hiện hiệu quả hơn chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng là cơ sở để chỉ đạo thực tiễn nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”[12] để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước.

    Tuy nhiên, do tính chất mới mẻ và phức tạp của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một thế giới thay đổi hết sức nhanh chóng, khó lường. Vì vậy, để tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ đó là công việc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có trách nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Do đó:

    Thứ nhất, cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ và khẳng định tính tất yếu, đúng đắn của sự lựa chọn và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

    Thứ hai, cần phải hiểu rõ và đánh giá đúng về bối cảnh, cách thức Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Một là, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trình độ lực lượng sản xuất thấp, phát triển không đồng đều, trải qua chiến tranh, chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng hoảng… Do vậy, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, phức tạp. Hai là, khó khăn của thời kỳ quá độ còn ở sự chống phá không ngừng của các thế lực thù địch, phản động. Vì vậy phải tỉnh táo, kiên định. Ba là, thế giới hiện nay diễn biến hết sức nhanh chóng, khó lường, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội lại có tính chất mới mẻ, phức tạp. Vì vậy, để tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

    Thứ ba, nhận thức là một quá trình, lý luận phải được tổng kết từ thực tiễn, do đó, cần phải hiểu rằng quá trình nhận thức của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng cần phải có thời gian thông qua thực tiễn đổi mới đất nước.

    Thứ tư, cán bộ, đảng viên cần phải nhận thức và thực hiện tốt vai trò, vị trí của mình trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; cống hiến để dựng xây đất nước, chứ không phải đòi hỏi nhanh chóng thụ hưởng những thành quả cách mạng.

    Thứ năm, học tập nâng cao trình độ lý luận, kiên định mục tiêu, lý tưởng. Thông qua những hành động cụ thể kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng.

    Thứ sáu, tham gia vào quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung lý luận để tiếp tục phát triển lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

    Thay cho lời kết, xin dẫn lời của Cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân”[13].

     

     

    [1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1976, tập 34, tr152-153.

    [2] Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.29-30.

    [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 47, tr. 694, 711

    [4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 51, tr.138

    [5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 55, tr.316

    [6] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.60, tr.131-132

    [7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.65, tr.139

    [8]ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70

    [9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2011, tr 434

    [10] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021, tr 35-36

    [11] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, 2021, tr 25

    [12] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, tập 1, tr.14

    Danh mục
    Tin nổi bật
    Tin liên quan
    zalo
    Hotline